Trong những năm gần đây, xu hướng khởi nghiệp tự doanh tại nước ta ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên các số lượng thống kê cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp thất bại sau 5 năm đầu tiên lên đến 95%. Liệu con số này có phải cho thấy nền tảng giáo dục khởi nghiệp cuả nước ta đang có lỗ hỏng.
Thế nào là giáo dục khởi nghiệp?
Tại các nước tiên tiến trên thế giới như Đức, Mỹ, Israel… giáo dục khởi nghiệp đã được đưa vào chương trình giáo dục đại học. Nội dung của chương trình này giúp cho sinh viên học về kế toán – tài chính, về quản trị doanh nghiệp, về tư duy sáng tạo… Ngoài ra, nội dung giáo dục khởi nghiệp không chỉ giúp cá nhân làm giàu, mà còn truyền được tinh thần đồng hành với xã hội góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Có lẽ Mỹ là nước chú trọng về vấn đề giáo dục khởi nghiệp rất sớm. Ngay từ năm 1947, Đại học Harvard đã đưa chương trình giáo dục khởi nghiệp vào nội dung giáo dục cho các tân sinh viên. Còn tại Việt Nam, dù tinh thần khởi nghiệp trong những năm gần đây được lan tỏa nhưng hiện tại chưa có một chương trình giáo dục khởi nghiệp đúng nghĩa được đưa vào trường học.
Từ kinh nghiệm của nước Mỹ cho thấy, các chương trình giáo dục khởi nghiệp luôn được điều chỉnh liên tục để thích ứng với xã hội mới, công nghệ mới… Nhưng tựu chung lại thì nội dung chính vẫn là ngành giáo dục phải đào tạo ra những doanh nhân tương lai vừa có kiến thức chuyên môn, vừa có năng lực quản lý và còn cả năng lực lãnh đạo nữa.
Tại Liên hiệp Anh, một nền kinh tế lớn thứ năm trên thế giới, cũng đã đưa giáo dục khởi nghiệp vào chương trình giáo dục đại học từ những năm 60.
Để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong sinh viên, nhiều trường đại học đã tổ chức các cuộc thi và thành lập nhiều quỹ đầu tư giúp sinh viên tiến hành khởi nghiệp thực thụ.
Xương sống của các mô hình giáo dục khởi nghiệp
Qua tổng kết từ các chương trình giáo dục khởi nghiệp ở các nước trên thế giới, ta thấy rõ ràng cốt lõi của một chương trình giáo dục khởi nghiệp như sau:
Giáo dục khởi nghiệp phải theo sự định hướng từ chiến lược kinh tế của Nhà nước. Ví dụ, Nhà nước muốn thúc đẩy du lịch trong một thời gian dài hạn thì các chương trình giáo dục khởi nghiệp phải có nội dung định hướng cho sinh viên về tư duy hiện đại hóa các mô hình kinh doanh du lịch.
Giáo dục khởi nghiệp không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt kiến thức, mà sinh viên còn phải được thực hành thông qua các mô hình nhỏ và nhà trường và các quỹ đầu tư là nhà tài trợ vốn.
Có rất nhiều điển hình khởi nghiệp công nghệ thành công tại nước Mỹ được ươm mầm từ trong trường đại học có thể kể đến Dropbox, Google, Microsoft… Trong đó có Dropbox được nhận vốn từ quỹ đầu tư hỗ trợ sinh viên.
Kinh nghiệm của các nước phương Tây cho thấy, một chương trình giáo dục khởi nghiệp đúng và đầy đủ sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư chú ý hơn đến các ý tưởng và mô hình khởi nghiệp từ sinh viên.
Giáo dục khởi nghiệp sẽ làm tăng tỷ lệ thành công cho các startup
Trong những năm qua chúng ta đã nhìn thấy những số liệu thống kê đáng buồn về tỷ lệ thành công của các startup Việt. Có đến 95% các doanh công ty startup thất bại ngay trong 5 năm đầu tiên.
Có rất nhiều mô hình kinh doanh sáng tạo hay nhưng lại “chết” vì thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp, thiếu kiến thức về marketing và bán hàng.
Tuy hiện tại đã xuất hiện nhiều hơn các chương trình giáo dục khởi nghiệp, hội thảo đào tạo cho doanh nhân. Thế nhưng các chương trình trên chỉ diễn ra đơn lẻ, chưa đáp ứng hết nhu cầu của sinh viên.